Chặng đường 110 năm
Trong suốt chiều dài lịch sử, trải qua các bước thăng trầm, Lào Cai có những biến động nhất định về mặt địa lý, dân cư và lịch sử. Địa danh Lao Kay rồi Lao Cai trước đây và cái tên Lào Cai ngày nay, được bắt nguồn từ địa danh khu đô thị cổ Lão Nhai (có nghĩa là Phố cổ). Ngày 12/7/1907 được xác định là Ngày thành lập tỉnh dân sự Lào Cai; trở thành mốc son, đánh dấu sự kiện quan trọng của nhân dân các dân tộc Lào Cai.Để tiến tới hình thành một tỉnh theo chế độ dân sự, Lào Cai đã phải trải qua một giai đoạn dài chịu sự cai quản theo chế độ quân sự thuộc Quân khu I, do thiếu tá Vichken Maye chỉ huy. Để nâng cao quyền lực cho các khu vực quân sự, thực dân Pháp quyết định bãi bỏ các quân khu để thành lập các đạo quan binh. Địa hạt Lào Cai và Yên Bái thuộc Đạo quan binh III; ngày 7/11/1899, đổi thành Đạo quan binh IV, địa hạt Lào Cai là Đạo lỵ, thủ phủ của Đạo quan binh IV. Việc thiết lập các đạo quan binh (một tổ hợp quân sự chỉ có ở vùng miền núi) nhằm mục đích vừa thống trị, vừa bình định các phong trào vũ trang kháng chiến của nhân dân ta, vừa khai thác tài nguyên thuộc địa.
Giao thương hàng hóa trên sông Nậm Thi. |
Sau khi hoàn thành công cuộc bình định quân sự, để dễ kiểm soát và tiến hành khai thác bóc lột, thực dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính. Ngày 12/7/1907, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ Đạo quan binh IV, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh dân sự Lào Cai, do Louis Gabriel Massager, đại tá Tư lệnh Đạo quan binh IV làm Công sứ. Từ đây, địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam. Tỉnh Lào Cai ngày đầu thành lập có châu Thuỷ Vĩ, châu Bảo Thắng và 4 đại lý: Phong Thổ, Bát Xát, Mường Khương, Bắc Hà; dân số toàn tỉnh có gần 40.000 người, với 11 dân tộc theo cách gọi lúc đó là: Kinh, Thổ, Mán, Mèo, Nùng, Nhắng, Lô Lô, U Ní, Hoa, Nhật, Ấn Âu, bao gồm 855 bản làng và hơn 6.800 hộ gia đình.
Bộ máy hành chính cấp tỉnh có 14 cơ quan: Toà công sứ, Toà án hoà giải rộng quyền, các sở Đại lý hành chính, Tổ chức cảnh sát biên phòng, Trại lính khố xanh, Kho bạc, lực lượng Lính sen đầm, cơ quan Thương chính và độc quyền; cơ quan Công chính, cơ quan Y tế, cơ quan Thú y, cơ quan Kiểm lâm, cơ quan Bưu chính và điện tín, cơ quan Giáo dục. Trong 35 năm, từ khi thành lập tỉnh dân sự Lào Cai (12/7/1907) đến năm 1942 (khi quân Nhật lên chiếm đóng Lào Cai), thực dân Pháp đó bổ nhiệm 20 viên công sứ (tỉnh trưởng). Có người như Pierre Emmerich được bổ nhiệm 2 lần; còn lại không ai đảm nhận chức trách đến 3 năm, vì lo ngại các công sứ ở lâu có thể bị các thế lực bên kia biên giới mua chuộc. Các công sứ đều là người Pháp, hầu hết đã học qua Học viện Hành chính Pari và đều có thâm niên cai trị ở Đông Dương rất xảo quyệt, tàn ác trong việc chống phá phong trào cách mạng ở Lào Cai.
Tỉnh Lào Cai được thành lập đến nay được 110 năm, với bao sự thay đổi về địa lý hành chính, tên gọi, nhưng bản thân vẫn vốn là vùng đất cổ. Vùng đất ấy đã có từ khi khai thiên lập địa, từ thời kỳ nguyên thuỷ đến thời kỳ phong kiến tự chủ và cho đến ngày nay. Song, do lịch sử để lại, địa danh hành chính đã qua nhiều lần sáp nhập; năm 1976 hợp nhất tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới lấy tên là Hoàng Liên Sơn, tồn tại 15 năm (1976 - 1991). Đến ngày 1/10/1991, tỉnh Lào Cai được tái lập, bổ sung thêm 3 huyện: Bảo Yên, Văn Bàn, Than Uyên. Lào Cai hôm nay có diện tích hơn 8.000 km2. Trong những biến động của lịch sử, dẫu trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng Lào Cai vẫn đứng vững như đỉnh Fansipan, uy nghi trước những tác động khắc nghiệt của thời gian và con người.
Trung tâm tỉnh lỵ Lào Cai được xây dựng khang trang. |
Trải qua 110 năm thành lập, Lào Cai đã để lại những dấu ấn cho muôn đời con cháu, đặc biệt là sự thay đổi về thể chế chính trị (tỉnh Lào Cai dưới chế độ phong kiến thổ ty trước đây, nay trở thành tỉnh Lào Cai dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đang có thế và lực mới). Trải qua các cuộc đấu tranh với thiên tai, ngoại xâm, bằng trí tuệ, mồ hôi, sức lực, xương máu đã hun đúc nên truyền thống và nhân cách của người Lào Cai. Mỗi người chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống đoàn kết các dân tộc, tinh thần anh dũng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để viết nên những trang sử mới, làm rạng rỡ hơn vùng đất mà các bậc tiền nhân đã có công xây dựng.