Về Bảo Yên (Lào Cai) thưởng thức bánh Lẳng

Được biết đến là món ăn đặc sản của người dân tộc Tày vùng núi Tây Bắc, bánh Lẳng là một món ăn không thể thiếu trong những dịp lễ, tết cũng như những dịp cúng tế quan trọng của người dân tộc Tày huyện Bảo Yên. Với vị thanh mát của gạo nếp hòa quyện với vị ngọt thanh của mật mía tạo nên hương vị đặc trưng, khiến người đã một lần được thưởng thức khó có thể quên vị của loại bánh này.

Bánh Lẳng - một món ăn được người Tày làm trong các dịp lễ tết.

Trong một lần được ghé đến vùng đất Lương Sơn, huyện Bảo Yên (Lào Cai), vùng đất với tỷ lệ người dân tộc Tày chiếm gần 67% tổng dân số, tôi đã được thưởng thức món bánh Lẳng, với vị thanh mát của gạo nếp hòa quyện với vị ngọt thanh của mật mía, khiến tôi ấn tượng mãi. ,.

Bánh Lẳng, một món ăn đã có từ rất lâu đời, được người Tày làm trong các dịp lễ tết, cúng lễ như cúng then để dâng lên tổ tiên và mời khách khi khách đến chơi nhà. Với người Tày nơi đây, trong mâm cỗ có thể không có nhiều thịt nhưng món bánh Lẳng thì nhất định phải có, vì chúng tượng trưng cho sự no đủ của cả năm.

Để có được chiếc bánh Lẳng ngon, người chế biến phải trải qua khá nhiều công đoạn. Công đoạn đầu tiên là chuẩn bị nước tro. Người Tày không chờ tới sát ngày làm bánh mới chuẩn bị nước tro mà họ chuẩn bị nước tro vào những ngày công việc rảnh rang. Họ lượm những loại cây lá như cây sắn, cây nhãn, cành bưởi, cây vừng đã hái quả, vỏ bưởi, lá chuối, thậm chí là rơm sau đó rửa sạch, phơi thật khô để đốt lấy tro.

Theo kinh nghiệm của người làm bánh lâu năm chia sẻ, muốn để cho bánh có màu đỏ đẹp phải lấy vỏ cây mơ, chừng 1 tới 2 miếng dài khoảng chừng 40 cm đem về đun, sau đó hòa vào nước lẳng, để cho lắng rồi chắt lấy nước. Gạo làm bánh phải là gạo nếp, ngon nhất khi dùng gạo nếp cái hoa vàng. Những hạt gạo được vo sạch, đãi sạn, dùng nước tro để ngâm. Ngâm gạo là cả một quy trình và kinh nghiệm. Gạo có màu trắng đục, đổ vào ngâm phải thay nước tro ba lần trong khoảng 9-10 tiếng đồng hồ, cứ 3 giờ thay một lần nước, như thế mới đủ độ thẩm thấu nước tro vào hạt gạo, sao cho màu hạt gạo chuyển từ trắng đục sang màu vàng nhạt có ánh hơi xanh, lấy tay trà xát, hạt gạo nhuyễn thành bột mới đạt yêu cầu.

Vị thanh mát của gạo nếp hòa quyện với vị ngọt thanh của mật mía tạo nên hương vị đặc trưng của món bánh Lẳng.

Một điều không thể thiếu để tạo nên sự thành công cho món bánh đặc biệt này phải kể đến lá dong. Lá dong dùng để gói bánh phải là loại lá dong đực, đây là loại lá dong nhỏ, có cuống trắng, thường được trồng xung quanh vườn nhà. Nếu dùng loại lá dong thường để dùng gói bánh chưng sẽ không tạo được độ vàng và bị dính bánh. Đáng chú ý, lá dong trước khi gói phải luộc qua cho mềm sau đó mới rửa để tạo độ mềm và không bị rách trong quá trình gói. Sau khi gói phải dùng tay lăn qua bánh để bánh không bị chặt tay.

Bánh Lẳng sau khi gói xong sẽ được đưa lên bếp và luộc. Để bánh đạt được độ ngon, người dân tộc Tày sẽ dùng hoàn toàn bằng bếp lửa. Bánh được cho vào nồi to và luộc trong vòng 4 tiếng, trong quá trình luộc bánh, sau khi trải qua 2 tiếng đầu, thời gian tiếp theo cứ chừng 30 phút, người luộc bánh phải mở ra xem 1 lần để quan sát độ mịn của bánh. Không giống như bánh chưng nếu đun quá thời gian thì sẽ bị chảy, bánh Lẳng đun càng lâu càng tốt vì khi đó, gạo nếp sẽ tạo ra một chất keo dính liên kết các hạt gạo với nhau, tạo nên vị ngon khó cưỡng cho món bánh này.

Một thứ không thể thiếu khi thưởng thức món bánh Lẳng chính là món mật dùng để chấm bánh. Loại mật được đồng bào người Tày ở đây dùng thường là mật mía. Để tạo ra loại mật này, người Tày có thể làm theo 2 cách. Các thứ nhất là dùng đường phên nấu cho ra mật, cách thứ hai là dùng nước ép từ cây mía trắng cô lại thành mật, thông thường dùng mật của cây mía sẽ có vị thơm ngon hơn so với đường phên. Trong quá trình nấu mật, người nấu phải chú ý sao cho mật không bị non hoặc quá cháy, nếu mật non sẽ bị hóa đường, còn mật đun quá tay sẽ bị cháy khét. Loại mật chấm này khi ăn cùng bánh sẽ có vị thanh, mát tạo nên hương vị đặc trưng vốn có của món bánh cổ truyền này.

Khi luộc xong, những chiếc bánh được vớt ra để trên nia hoặt treo từng bó lên cho khô nước, thông thường bánh Lẳng sẽ để được khoảng 1 tuần khi bảo quản trong tủ mát. Đặc biệt, món bánh này thường “đắt khách” trong những ngày Tết. Ngày Tết mọi người ăn nhiều thịt và uống nhiều rượu nên sinh ra háo và nóng dạ, khi đó vị man mát của những miếng bánh Lẳng chấm mật mía sẽ làm tan đi cái ngấy của thịt và giúp ta tỉnh táo hơn sau những bữa rượu vui cùng anh em, bạn bè.

Theo thời gian, ngày nay người dân tộc Tày Bảo Yên vẫn giữ truyền thống làm bánh Lẳng ăn trong những ngày Tết, ngày lễ. Nếu có dịp ghé thăm những bản làng người Tày sinh sống, hãy một lần thưởng thức món bánh lẳng để cảm nhận hương vị đặc biệt của ẩm thực đồng bào người Tày nói chung và người Tày ở Bảo Yên nói riêng.

Nguyễn Thảo

Tin Liên Quan

Mùa cốm mới bên dòng Nậm Bắt

Bằng bàn tay khéo léo, chăm chỉ, những phụ nữ Tày đã làm ra những “hạt ngọc xanh” đong đầy hương vị đất trời, đưa hạt cốm Hợp Thành trở thành sản phẩm OCOP 3 sao của thành phố Lào Cai.

3 sản phẩm trà Lào Cai đạt giải thưởng trà thế giới tại Pháp

Theo thông báo từ Hiệp hội Bình chọn sản phẩm nông nghiệp thế giới tại Pháp - AVPA về kết quả Cuộc thi Trà quốc tế năm 2024, Lào Cai có 3 sản phẩm trà chế biến từ nguyên liệu lá cây trà Shan tuyết cổ thụ Hoàng Liên Sơn đã đạt giải thưởng trà thế giới với 2 giải Đồng và 1 giải Ấn tượng.

[Ảnh] Phụ nữ Tày Hợp Thành giữ nghề làm cốm

Tháng 10 vào độ cuối Thu, đến thôn Cáng 1, cáng 2, xã Hợp Thành, thành phố Lào Cai, chúng tôi sẽ được hòa mình vào bầu không khí náo nức, rộn ràng của mùa cốm mới. Những phụ nữ Tày với đôi bàn tay khéo léo và sự chăm chỉ, chịu khó ra đồng cắt lúa nếp về làm thành những hạt cốm dẻo thơm, mềm ngọt,...

SỦI DÌN - món ngon khi mùa thu về

[Ảnh] Nông dân Bát Xát thu hoạch sâm đất đầu vụ

Tháng 10, là thời điểm nông dân vùng cao huyện Bát Xát bắt đầu vào vụ thu hoạch củ sâm đất để bán cho thương lái. Năm nay, sản lượng sâm đất toàn huyện Bát Xát ước đạt 1.500 tấn củ.

[Ảnh] Tôi là: Bánh chưng đen

Dưới chân núi Khau Mạ cổ tích, trong không gian văn hóa nhà sàn và nhờ đôi tay khéo léo của những người phụ nữ dân tộc Tày, tôi được sinh ra.