Bảo tồn trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số
Cùng với tiếng nói và chữ viết, trang phục truyền thống là thành tố thể hiện đặc trưng văn hóa của tộc người giữa cộng đồng đông đúc. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay, nét văn hóa này đang dần mai một ở một số dân tộc trên địa bàn tỉnh, do vậy việc bảo tồn và phát huy là một trong những nhiệm vụ cấp thiết và cần có giải pháp thích hợp.Theo số liệu của Ban Dân tộc tỉnh, đến hết năm 2017, dân số tỉnh Lào Cai là 699.507 người với 29 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là 237.792 người và dân tộc thiểu số là 461.715 người. Trong số 28 dân tộc thiểu số, dân tộc Mông có số dân đông nhất, với 32.309 người; có 5 dân tộc chỉ có 1 người là Ê Đê, Thổ, Cơ Tu, Kháng, La Hủ; 3 dân tộc chỉ có 2 người là Gia Rai, Pà Thẻn và Gié Triêng.
Trở lại 10 năm về trước, đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh vẫn thường xuyên sử dụng trang phục truyền thống trong các dịp sinh hoạt chung của cộng đồng như lễ hội, cưới hỏi... nhất là trong lễ cấp sắc của người Dao, trong tang ma của người Mông và một số dân tộc khác. Tuy nhiên một vài năm gần đây, thói quen sử dụng trang phục truyền thống đã có sự thay đổi ở một số nhóm ngành, một số bộ phận người dân tộc thiểu số, đặc biệt là giới trẻ, thường xuyên tham gia các hoạt động xã hội nên có xu hướng “bài trừ” cái cũ, du nhập cái mới để thay thế.
Phụ nữ dân tộc Mông ở bản Cát Cát (xã San Sả Hồ, Sa Pa) dệt thổ cẩm. Ảnh: Ngọc Bằng |
Theo kết quả khảo sát thực tế của Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, tỷ lệ sử dụng trang phục truyền thống nhiều nhất ở Lào Cai thuộc về nhóm dân tộc Hà Nhì ở huyện Bát Xát (phụ nữ còn sử dụng khoảng 80%); người Mông ở Bát Xát, Sa Pa và người La Chí ở Bắc Hà, Si Ma Cai (khoảng 70%); người Phù Lá ở Bắc Hà, Mường Khương, Si Ma Cai và người Giáy, người Tày (khoảng 65%)... Một số dân tộc có xu hướng sử dụng trang phục của dân tộc khác, đơn cử là người Mông ở Sa Pa có xu hướng thích sử dụng áo của người Tày, người Giáy. Bên cạnh đó, việc sử dụng trang phục may sẵn, trang phục ngoại nhập cũng dần trở nên phổ biến, nhất là vùng đồng bào người Mông, bởi các sản phẩm may sẵn có giá thành rẻ, mẫu mã phong phú và nhiều màu sắc. Cá biệt có những xã người Mông ở huyện Mường Khương đã chuyển đổi trang phục từ thêu thủ công sang trang phục may sẵn đến 90%, màu sắc chủ đạo chuyển từ màu đỏ sang màu xanh, tím…
Thực tế cũng cho thấy, trên địa bàn tỉnh hiện nay, một số ít dân tộc thiểu số (người Mông, người Tày, Dao họ) vẫn tự dệt vải và hình thành câu lạc bộ, hợp tác xã may thêu thổ cẩm, tuy nhiên số lượng lại không nhiều, chỉ tập trung ở một số xã của huyện Sa Pa và Bắc Hà, Văn Bàn, Bảo Yên. Phần đa các dân tộc thiểu số khác không còn duy trì nghề dệt do nguyên liệu may mặc trên thị trường hiện nay rất sẵn, phong phú và giá rẻ. Họ thường mua nguyên liệu có sẵn về tự cắt trang phục theo kiểu dáng truyền thống, một số ít thì khâu tay nhưng chủ yếu là làm những bộ trang phục cho trẻ sơ sinh hoặc phụ kiện như mũ, khăn, còn lại chủ yếu sử dụng đồ công nghiệp mua sẵn…
Đứng trước nguy cơ mai một về trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, bà Nguyễn Thị Tố Uyên, Phó Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch cho biết: Ngành văn hóa đã tham mưu cho tỉnh xây dựng và triển khai thực hiện Đề án “Phát triển thiết chế văn hóa, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Lào Cai, giai đoạn 2011 - 2015”, Dự án “Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể quốc gia trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2017 - 2022”. Đồng thời xác định, việc kiểm kê, sưu tầm văn hóa dân gian và tuyên truyền để người dân cùng tham gia vào việc gìn giữ, phát huy nghề dệt truyền thống, bảo tồn trang phục cổ truyền là nội dung xuyên suốt trong các chương trình tuyên truyền, tập huấn bảo tồn văn hóa dân tộc. Ngoài ra, ngành văn hóa cũng chủ động phối hợp với chính quyền các địa phương tuyên truyền, khuyến khích cán bộ, công chức và người dân là người dân tộc thiểu số sử dụng trang phục dân tộc truyền thống; đưa nội dung thi trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc vào chương trình hội diễn nghệ thuật quần chúng tổ chức 2 năm/lần và đặt ra yêu cầu tại các trường dân tộc nội trú, khi có lễ kỷ niệm học sinh phải mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình... Đây là một trong những cách làm linh hoạt, sáng tạo của tỉnh để trang phục truyền thống “sống” được trong cộng đồng dân cư.
Bà Uyên cho rằng, để bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống thì điều quan trọng nhất là ý thức của người dân - những chủ thể sáng tạo và sử dụng chính sản phẩm mình làm ra. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách tác động để tạo ra môi trường lành mạnh trong việc sản xuất, gia công, lưu thông hàng hóa gắn với việc sản xuất trang phục dân tộc. Các nhà quản lý cần quan tâm đến các nghệ nhân có công gìn giữ, bảo tồn những nghề truyền thống như nghề trồng bông, dệt, thêu; có kế hoạch quảng bá thu hút khách tham quan, bán hàng ngay tại làng nghề, tạo thu nhập cho đồng bào. Chú trọng đến việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu cho những bộ trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số để không bị lai tạp, không bị làm giả, làm nhái. Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức để đồng bào hiểu và trân trọng, tự hào về giá trị của những di sản văn hóa dân tộc nói chung và trang phục truyền thống nói riêng. Xây dựng chương trình để đưa môn cắt may, thêu, tạo hình hoa văn trên trang phục truyền thống vào thành môn học nghề tại trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, đồng thời mời các nghệ nhân lên lớp hướng dẫn, nhằm trao truyền những giá trị truyền thống từ lớp trẻ, những người sẽ tiếp bước và duy trì văn hóa của mỗi dân tộc...
Vấn đề bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số là hành trình dài lâu và không đơn giản, nhất là việc bảo tồn, phát huy trong cuộc sống hằng ngày lại càng khó khăn, phức tạp hơn. Bởi vậy, việc giữ gìn, phát huy giá trị trang phục truyền thống dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập sâu rộng như hiện nay rất cần sự quan tâm, góp sức của cả cộng đồng xã hội.