Đoàn kết viết tiếp trang sử mới hào hùng (*)
Tại Lễ kỷ niệm 110 năm Ngày thành lập tỉnh Lào Cai, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Lào Cai đã trình bày diễn văn nêu bật những thành tựu của tỉnh từ khi thành lập đến nay. Cổng thông tin đối ngoại Lào Cai trận trọng giới thiệu toàn văn bài diễn văn.Kính thưa đồng chí Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam!
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng!
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương, lãnh đạo các tỉnh bạn, lãnh đạo tỉnh Lào Cai, tỉnh Hoàng Liên Sơn qua các thời kỳ !
Kính thưa quý vị đại biểu và đồng chí, đồng bào!
Trong không khí tưng bừng phấn khởi của cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc toàn tỉnh đang ra sức thi đua hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2017 và thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2015 – 2020, hôm nay, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh Lào Cai long trọng tổ chức Lễ mít tinh kỷ niệm 110 năm Ngày thành lập tỉnh Lào Cai (12/7/1907 – 12/7/2017) và đón nhận Huận chương Độc lập hạng Nhất lần thứ hai.
Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Vịnh trình bày diễn văn tại Lễ kỷ niệm. |
Thay mặt Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh Lào Cai, tôi nhiệt liệt chào mừng đồng chí Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đại biểu các cơ quan Trung ương, đại biểu các tỉnh bạn đã tới chúc mừng, động viên, chia sẻ niềm vui cùng Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Lào Cai. Xin trân trọng chào mừng các bậc lão thành cách mạng, Mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang; các đồng chí lãnh đạo tỉnh Lào Cai, Hoàng Liên Sơn qua các thời kỳ; các đại biểu cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Xin gửi tới các vị đại biểu, khách quý cùng toàn thể đồng chí, đồng bào lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Tại buổi lễ trọng thể này, chúng ta thành kính bày tỏ lòng biết ơn đối với những thế hệ tiền nhân đã có công khai phá, kiến tạo nên vùng biên ải Lào Cai. Chúng ta tưởng nhớ và biết ơn công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Chúng ta thành kính nhớ ơn những bậc tiền bối, cán bộ lão thành cách mạng, các anh hùng liệt sỹ, đồng chí, đồng bào, chiến sỹ, các doanh nghiệp và bạn bè quốc tế đã anh dũng đấu tranh, cống hiến xương máu, công sức, trí tuệ của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng, bảo vệ, xây dựng tỉnh Lào Cai trong suốt 110 năm qua, để có một Lào Cai phát triển như ngày hôm nay.
Kính thưa các quý vị đại biểu, cùng toàn thể đồng chí, đồng bào!
Lào Cai là vùng đất có lịch sử hào hùng, gắn với sự hình thành, phát triển của dân tộc, của đất nước Việt Nam. Từ trong lịch sử dựng nước, giữ nước đến nay, Lào Cai luôn là vùng đất linh kiệt, chiếm vị trí chiến lược trọng yếu, nơi địa đầu biên cương Tổ quốc.
Ngay từ buổi bình minh dựng nước, Lào Cai đã là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá quan trọng ở vùng thượng lưu sông Hồng. Thời Hùng Vương dựng nước, địa bàn tỉnh Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang. Đến thời nhà Lý Thái Tông, Lào Cai thuộc đất Đăng Châu – một tiền đồn quan trọng trên biên cương phía Bắc. Trong thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, với vị trí của Lào Cai - khi đó gọi là các châu Đan Đường và Chu Quý, chính là cửa ngõ trên con đường giao thương từ nước ta tới các vương quốc Điền, Nam Chiếu, Đại Lý ở Tây Nam (Trung Quốc), Lào Cai là một trong số ít những địa phương được các nhà nghiên cứu Trung Quốc ghi chép khá tỷ mỷ trong các thư tịch hiếm hoi còn sót lại. Thời nhà Trần, Lào Cai thuộc huyện Thủy Vĩ, châu Quy Hóa, trấn Thiên Hưng. Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thủy Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên, thuộc phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa. Từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Lào Cai (tháng 3/1886 - đến 1907), Lào Cai là một Tiểu quân khu thuộc Đạo quan binh số 4 của Pháp.
Trong những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã hình thành các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị ở Lào Cai; tỉnh lỵ Lào Cai được bắt đầu quy hoạch từ năm 1900, bao gồm 4 phố Tân Bảo, Tân Tèo, Cốc Lếu và Phố Mới; khi mới thành lập có 2.000 dân. Lào Cai, cùng với Hà Nội, Hải Phòng là ba đô thị đầu tiên ở miền Bắc có nhà máy điện và hệ thống chiếu sáng đường phố. Sau đó, các khu phố Lão Nhai, Cốc Lếu, Vĩ Kim, Phố Mới được mở rộng; năm 1903 thực dân Pháp xây dựng chợ Lào Cai, tiếp đó các kho bãi, quảng trường, bệnh viện, nhà thờ cũng được xây dựng. Năm 1903, khu nghỉ mát Sa Pa được bắt đầu quy hoạch xây dựng và đến những năm 1940 được coi là "thủ phủ mùa hè" của toàn xứ Đông Dương. Đến tháng 5 năm 1904, người Pháp quy hoạch tổng thể trung tâm đô thị Lào Cai; thời gian này tuyến đường sắt Điền – Việt nối Hà Nội (Việt Nam) với Vân Nam (Trung Quốc) đi qua Lào Cai được xây dựng. Nhờ kinh tế phát triển, giao thông thuận lợi, quan hệ biên giới ổn định... đã tạo tiền đề cho việc thành lập tỉnh dân sự Lào Cai. Ngày 12/7/1907, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra Nghị định 288 bãi bỏ Đạo quan binh số 4, chuyển Lào Cai từ chế độ quân quản sang chế độ dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai chính thức có tên trên bản đồ Việt Nam.
Tỉnh Lào Cai được thành lập là sự kiện lịch sử quan trọng, không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là thành lập một đơn vị hành chính cấp tỉnh mà còn tạo tiền đề để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cho vùng biên giới Tây Bắc Việt Nam. Đặc biệt, việc thành lập tỉnh Lào Cai tạo đà thúc đẩy tiến trình trao đổi kinh tế, văn hóa giữa vùng Bắc Bộ (Việt Nam) với vùng Tây Nam (Trung Quốc). Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, Lào Cai đã nằm trên tuyến đường sắt huyết mạch Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng.
Kính thưa các quý vị đại biểu, đồng chí, đồng bào!
Trải qua 110 năm, kể từ khi thành lập tỉnh đến nay, Lào Cai có nhiều thay đổi về địa danh hành chính cấp huyện và tỉnh. Trong 10 năm đầu thế kỷ XX (từ 1910 đến 1920) tỉnh Lào Cai mới xuất hiện các đại lý Mường Khương, Pạc Kha (tức là Bắc Hà), Bát Xát, Phong Thổ và đặc khu Sa Pa; năm 1955, huyện Phong Thổ chuyển sang khu tự trị Thái – Mèo, về sau thuộc tỉnh Lai Châu. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương và Quốc hội, ngày 3/1/1976, Lào Cai hợp nhất với 2 tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Sau 15 năm hợp nhất, thực hiện chủ trương của Đảng tại Đại hội VII và Nghị quyết của Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII, ngày 1/10/1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn chia tách thành hai tỉnh Yên Bái, Lào Cai; tỉnh Lào Cai chính thức tái lập. Vào thời điểm này, tỉnh Lào Cai có diện tích tự nhiên 8.044 km2. Năm 2000 chia tách huyện Bắc Hà, thành lập huyện Bắc Hà và huyện Si Ma Cai. Năm 2002 Chính phủ ra nghị định sáp nhập thị xã Lào Cai với thị xã Cam Đường thành thị xã Lào Cai. Năm 2004 huyện Than Uyên chuyển sang tỉnh Lai Châu mới và nâng cấp thị xã Lào Cai lên thành phố Lào Cai. Từ đó đến nay Lào Cai bao gồm 8 huyện và 1 thành phố, 164 xã, phường, thị trấn, phía Bắc giáp với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với hơn 182 km đường biên giới, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu; diện tích tự nhiên 6.364 km2, dân số đến hết năm 2016 là 684.295 người, gồm 25 nhóm, ngành dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm trên 64%.
Lào Cai có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú bao gồm rừng, đất đai, giàu khoáng sản, hệ thống sông suối và khí hậu đa dạng. Lợi thế về tự nhiên đã tạo cho Lào Cai có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng gắn với các địa danh Sa Pa, Bắc Hà, Bát Xát, Bảo Yên, Mường Khương, Si Ma Cai. Dãy núi Hoàng Liên Sơn có đỉnh Phanxipăng cao 3.143m – là “nóc nhà Đông Dương”, có khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên với hệ sinh thái rất phong phú; có ngã ba Lũng Pô – nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt… Lào Cai có lợi thế so sánh về vị trí địa kinh tế, chính trị, có hệ thống giao thông thuận lợi, cả đường bộ, đường sông, đường sắt, tương lai có đường hàng không. Không chỉ có vai trò quan trọng trên tuyến hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội - Hải Phòng, Lào Cai còn là cầu nối, cửa ngõ của Việt Nam và các nước ASEAN với tỉnh Vân Nam và miền Tây Nam Trung Quốc, là trung tâm của hành lang Bắc Nam trong hợp tác các nước tiểu vùng sông Mê Kông.
Với lịch sử hình thành lâu đời, Lào Cai có nhiều giá trị văn hóa đa dạng, giàu bản sắc. Tiêu biểu là các di tích khảo cổ và trên 13.000 hiện vật thời kỳ văn hoá Đông Sơn, bãi đá cổ Sa Pa được xếp hạng di sản văn hoá của nhân loại. Nhân dân các dân tộc Lào Cai sở hữu kho tàng đồ sộ về văn hóa dân gian với hơn 100 bộ sách bằng chữ Pali của dân tộc Thái ra đời từ thế kỷ XIII, hàng nghìn bộ sách cổ bằng chữ Nôm của dân tộc Tày, Dao, Giáy, trên 30 lễ hội dân gian truyền thống cùng hệ thống các tín ngưỡng dân gian, phong tục, tập quán, trò chơi, chữ viết, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, ngành nghề thủ công, mỹ nghệ… thể hiện tài năng, sự khéo léo và óc thẩm mỹ tinh tế của người dân Lào Cai.
Từ quá trình đấu tranh bảo vệ, xây dựng vùng đất biên cương cũng để lại cho Lào Cai nhiều di tích văn hóa và lịch sử nổi tiếng như thành cổ Nghị Lang (huyện Mường Khương), đền Trung Đô, đền Bắc Hà (huyện Bắc Hà), đền Bảo Hà, đền Phúc Khánh (huyện Bảo Yên), đền Thượng, đền Cấm, đền Quan, đền Đôi Cô (Thành phố Lào Cai)... Lào Cai cũng nổi tiếng với các vùng sinh thái nông nghiệp gắn với đặc sản như: Rượu ngô, mận (Bắc Hà), rau ôn đới, cây dược liệu, cá Hồi, cá Tầm (Sa Pa), rượu Shan Lùng (Bát Xát), gạo Séng cù (Mường Khương)… Đây là nguồn tài nguyên vô giá của nhân dân Lào Cai nói riêng, của cả nước nói chung.
Kính thưa các quý vị đại biểu, đồng chí, đồng bào!
Nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, Lào Cai là “phên dậu”, là một trong những địa bàn trọng yếu của cả nước. Ngay từ buổi đầu dựng nước, vùng đất Lào Cai đã thường xuyên là địa bàn diễn ra chiến sự ác liệt, phòng, chống các thế lực ngoại bang xâm lược, tiêu biểu là chứng tích Đài Hỏa hiệu tại Khu di tích lịch sử đền Thượng do đích thân Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn truyền lệnh xây dựng từ thế kỷ XIII nhằm phòng thủ đất nước. Nhân dân Lào Cai đã sớm hun đúc truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất trong suốt chiều dài lịch sử.
Đến thời cận đại, Lào Cai là một trong những căn cứ chống thực dân Pháp. Châu Bảo Thắng được tướng Lưu Vĩnh Phúc chọn là nơi xây dựng hệ thống đồn binh, trạm kiểm soát vùng biên giới và trở thành căn cứ của quân Cờ Đen. Từ năm 1886 đến đầu thế kỉ XX, nhân dân các dân tộc Lào Cai đã liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Ngọn lửa đấu tranh trên đất Lào Cai đã cổ vũ phong trào chống Pháp xâm lược của cách mạng cả nước nói chung và vùng đất biên cương nói riêng. Nhiều chiến công oanh liệt chống ngoại xâm ở miền biên ải Lào Cai đã đi vào lịch sử.
Nối tiếp truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm trong lịch sử, từ ngày có Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt, phong trào cách mạng của nhân dân các dân tộc Lào Cai bước sang một trang mới với nhiều sự kiện quan trọng. Tháng 5 năm 1945, các cơ sở yêu nước, ủng hộ Việt Minh đã được thành lập tại Ty Thủy lâm, Đề-pô xe lửa Phố Mới, thị trấn Sa Pa, Phố Lu... đây là những tổ chức nòng cốt của cách mạng ở Lào Cai có sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, sự động viên kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự hỗ trợ của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Kỳ bộ Việt Minh, Lào Cai đã thành lập được chính quyền cách mạng tại thị xã Lào Cai, huyện Bảo Thắng, huyện Sa Pa.
Sau khi thành lập, chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân xây dựng các đội tự vệ, các tổ chức quần chúng: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... để tham gia giữ gìn an ninh trật tự, khắc phục nạn đói, nạn mù chữ, đấu tranh chống lại những hành động phá hoại của bọn phản động; hưởng ứng “Tuần lễ vàng” do Mặt trận Việt Minh phát động...
Đáp ứng nhiệm vụ lãnh đạo đánh Quốc dân Đảng, đầu tháng 9/1946, Xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh Lào Cai. Đây là tổ chức tiền thân của Tỉnh uỷ Lào Cai, có nhiệm vụ lãnh đạo quân và dân Lào Cai cùng bộ đội chủ lực tiến hành dẹp trừ bọn phản động. Ngày 12/11/1946 thị xã Lào Cai được giải phóng khỏi ách cai trị của chính quyền Quốc dân Đảng. Nhân dân các dân tộc Lào Cai vui mừng chào đón cách mạng.
Ngày 30/11/1946, Uỷ ban Quân quản tỉnh Lào Cai được thành lập, đến tháng 6/1947 đổi thành Uỷ ban Hành chính và Uỷ ban Kháng chiến. Đi đôi với việc củng cố chính quyền, các tổ chức quần chúng: Phụ nữ, thanh niên, nông hội, thiếu niên cứu quốc... cũng được kiện toàn. Để nâng cao năng lực lãnh đạo công cuộc kháng chiến, tháng 1/1947, Khu ủy (Khu 10) quyết định thành lập Tỉnh uỷ Lào Cai lâm thời, thay cho Ban Cán sự Đảng, lúc này toàn tỉnh có 25 đảng viên. Ngày 5/3/1947, tại thị xã Lào Cai, hội nghị toàn thể đảng viên tỉnh Lào Cai đã họp, tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 7 đồng chí, do đồng chí Lê Thanh làm Bí thư và thông qua nghị quyết một số nội dung quan trọng. Hội nghị này là mốc son đánh dấu sự ra đời của Đảng bộ tỉnh, mở ra thời kỳ cách mạng mới ở Lào Cai – Thời kỳ phong trào cách mạng chính thức có một Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lãnh đạo, đưa phong trào hòa vào dòng thác cách mạng của cả dân tộc, hướng theo mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Năm 1947 – 1948, nhằm bảo toàn lực lượng và chỉ đạo kháng chiến trước tình hình thực dân Pháp đã đánh chiếm và đàn áp phong trào cách mạng tại Lào Cai, tất cả các cơ quan đầu não của tỉnh sơ tán về huyện Lục Yên (Yên Bái). Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Lào Cai hăng hái tham gia các chiến dịch Sông Thao (7/1949), Tây Bắc (2/1950); đặc biệt là chiến dịch Biên giới tháng 9/1950 (còn gọi là Chiến dịch Lê Hồng Phong II), lần thứ hai giải phóng hoàn toàn Lào Cai, mở ra một trang mới trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Lào Cai.
Giai đoạn 1950 – 1975, nhân dân Lào Cai cùng với cả nước thực hiện thắng lợi các phong trào cách mạng, nhiều cuộc vận động lớn như: Tiễu phỉ, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh; đón nhận đồng bào các tỉnh miền xuôi xây dựng, phát triển kinh tế miền núi; xây dựng hợp tác xã kết hợp cải cách dân chủ, cải tạo công thương nghiệp; vừa sản xuất vừa chiến đấu và chi viện cho cách mạng miền Nam, góp phần cùng cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong thời kỳ này kết nghĩa với tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Không khí xây dựng, kiến thiết Lào Cai sục sôi, thành thị thi đua xây dựng mỏ apatít, nhà máy nhiệt điện, cơ khí, trường học, bệnh viện, kiến thiết thị xã Lào Cai, thị xã mỏ Cam Đường và khu du lịch Sa Pa... nông thôn củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là những nơi trước đó từng nổi phỉ. Từng niềm vui mới được thể hiện trên mỗi công trình, mỗi vùng miền, còn lưu lại đến tận hôm nay.
Những năm hào hùng ấy, người Lào Cai, các địa phương của Lào Cai liên tục đón nhận thư khen, huy hiệu và các phần thưởng của Bác. Đặc biệt, ngày 23/9/1958, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lào Cai đã vinh dự được đón Bác về thăm trong niềm vui hân hoan. Dấu chân Người đã in trên những khai trường mới mở, đường sắt Pom Hán - Làng Giàng - Phố Mới đã đưa Người lên Lào Cai - thị xã biên cương Tổ quốc. Đây cũng là thời kỳ các lĩnh vực văn hóa - xã hội có bước chuyển biến to lớn: Công tác xóa nạn mù chữ được đẩy mạnh, dân trí được nâng cao. Năm 1955, Ty Giáo dục Lào Cai được thành lập, hệ thống trường phổ thông các cấp nhanh chóng phát triển đảm bảo các xã đều có trường cấp I, các huyện có trường cấp II, năm học 1961 - 1962, trường cấp III đầu tiên được mở tại thị xã Lào Cai. Ngành y tế Lào Cai được chú trọng xây dựng: các bệnh xá, trạm xá từ tỉnh đến huyện, xã cơ bản đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân; đến năm 1975, toàn bộ các huyện đều có bệnh viện đa khoa, có 112 trạm xá xã. Phong trào thể dục - thể thao, xây dựng nếp sống văn hóa mới được nhân dân hưởng ứng sôi nổi.
Sau 15 sáp nhập dưới mái nhà chung của tỉnh Hoàng Liên Sơn (1976 – 1991) và tiến hành công cuộc xây dựng, phát triển, bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc, ngày 1/10/1991 tỉnh Lào Cai được tái lập và bắt tay vào giai đoạn tái thiết, phát triển mới. Nhớ lại ngày đầu mới tái lập tỉnh, tình hình mọi mặt của tỉnh hết sức khó khăn và phức tạp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém, giao thông đến tỉnh và từ tỉnh đến huyện, đến xã xuống cấp nghiêm trọng, 56/180 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm, 7/10 huyện, thị chưa có điện lưới quốc gia; quy mô nền kinh tế nhỏ bé, sản lượng lương thực bình quân đầu người chỉ đạt 184kg/năm, thu ngân sách trên địa bàn cả năm mới đạt 19 tỉ đồng; trình độ dân trí thấp và không đồng đều, 60% số trẻ trong độ tuổi không được đến trường, 36 xã chưa có trạm y tế, phong tục tập quán lạc hậu còn rất nặng nề, hơn 11 nghìn người nghiện ma tuý, trên 30% cán bộ xã không biết chữ; thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 680 nghìn đồng/năm, có tới 55% số hộ thuộc diện đói nghèo. An ninh biên giới, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp.
Trước yêu cầu tái thiết, xây dựng và phát triển, với sự đoàn kết, chung sức của các tầng lớp nhân dân, sự quyết tâm của cấp ủy, chính quyền, MTTQ, đoàn thể chính trị xã hội các cấp; sự giúp đỡ, ủng hộ của Trung ương, các địa phương trong cả nước và bạn bè quốc tế, Lào Cai đã có những quyết sách rất đúng đắn, phù hợp, tạo tiền đề quan trọng và vững chắc cho sự phát triển.
Từ điểm xuất phát kinh tế thấp, sản xuất nông nghiệp mang tính tự túc, tự cấp là chủ yếu, Lào Cai đã đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực. Nền kinh tế phát triển toàn diện, tăng trưởng nhanh cả về quy mô và tốc độ gắn với việc đẩy mạnh khai thác tiềm năng và thế mạnh của địa phương, phát huy các nguồn lực; từng bước phát triển cả bề rộng và chiều sâu, nhất là sau thời điểm tái lập năm 1991. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục và luôn đạt ở mức hai chữ số. Bình quân trong hơn 25 năm tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Lào Cai đạt 10,5%/năm trở lên. Quy mô GDP cũng ngày càng lớn, năm 2010 gấp 6,1 lần năm 1991, năm 2016 tăng gấp 1,8 lần năm 2010. Sự tăng trưởng này giúp Lào Cai dần thoát ra khỏi tỉnh nghèo, trở thành tỉnh phát triển của vùng Tây Bắc.
Các ngành kinh tế của tỉnh tăng trưởng liên tục. Nông nghiệp phát triển toàn diện đã khẳng định được vai trò quan trọng của ngành kinh tế trọng tâm của tỉnh. Quy mô sản xuất nông nghiệp năm 2010 gấp 2,8 lần năm 1991, năm 2016 gấp 1,4 lần năm 2010. Tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp bình quân đạt 8%/năm. Kinh tế công nghiệp có bước phát triển đột phá, quy mô sản xuất ngày một lớn (năm 2010 gấp 14,6 lần năm 1991; năm 2016 tăng gấp 2,2 lần năm 2010), tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 18,8%/năm.
Khu kinh tế cửa khẩu được đầu tư đồng bộ, hoạt động hiệu quả, sớm là ngành kinh tế động lực gắn với sự phát triển mở rộng, hiện đại của thành phố Lào Cai; Tỉnh đã có chủ trương đúng đắn di chuyển Trung tâm hành chính về khu đô thị mới hiện nay, năm 2014 thành phố Lào Cai được công nhận là đô thị loại 2, tháng 9/2016 Khu kinh tế của khẩu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mở rộng quy mô từ 7.971 ha lên 15.929 ha. Du lịch phát triển nhanh, toàn diện về cả địa bàn, sản phẩm và chất lượng, trở thành ngành kinh tế “mũi nhọn” trong cơ cấu phát triển kinh tế của tỉnh; Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Khu du lịch quốc gia Sa Pa – Bát Xát. Năm 2010, dịch vụ tăng gấp 1,5 lần năm 2000, gấp 8,9 lần năm 1991; năm 2016 gấp 1,6 lần năm 2010. Tốc độ tăng trưởng bình quân của dịch vụ đạt 17,4%/năm.
Tài chính - ngân hàng chuyển biến tích cực, tăng trưởng tín dụng bình quân 20%/năm, thu ngân sách tăng hàng năm gần 20%, năm 2016 đạt trên 6.200 tỷ đồng. Cơ cấu các thành phần kinh tế đã phát huy tốt tiềm lực của các thành phần kinh tế, trong đó vai trò khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vị trí quan trọng.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đạt được kết quả quan trọng. Chương trình xây dựng nông thôn mới được cả hệ thống chính trị vào cuộc quyết liệt, đồng bộ, nhân dân đồng thuận cao; năm 2016 đã có 28 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được đầu tư nâng cấp. Đặc biệt tuyến đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai hoàn thành và vận hành từ năm 2014 góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và chuyển biến về các mặt xã hội của tỉnh. Công cuộc cải cách hành chính được đẩy mạnh, môi trường đầu tư hấp dẫn. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và chỉ số sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin (ICT index), cải cách hành chính luôn được đánh giá nằm trong tốp đầu toàn quốc đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ổn định, vững chắc.
Các mặt của đời sống xã hội có điều kiện chuyển biến và đều đạt được những thành tựu quan trọng. Giáo dục, đào tạo mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lượng; hoàn thành các mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non, tiểu học, THCS trước thời hạn. Giáo dục đại học, cao đẳng, chuyên nghiệp, đào tạo nghề của Lào Cai cũng có những chuyển biến tích cực, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng, từng bước đáp ứng với yêu cầu phát triển của tỉnh. Hệ thống y tế không ngừng được củng cố, phát triển, hoàn thiện từ tỉnh đến cơ sở. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ được mở rộng và nâng cao chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Hiện nay, Lào Cai có 14 bệnh viện với gần 2.500 giường bệnh và trên 700 bác sỹ, 36 phòng khám đa khoa khu vực cùng với hệ thống trạm y tế ở 164 xã, phường, thị trấn.
Đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú, bản sắc văn hoá được giữ gìn, phát huy. Các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, truyền thanh - truyền hình, báo chí được đẩy mạnh. Đến nay, tỷ lệ hộ dân được nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đạt 95%, được xem Truyền hình Việt Nam đạt 97%; từ năm 2013 các chương trình phát thanh, truyền hình của tỉnh đã được phát sóng thông qua vệ tinh Vinasat. Việc đầu tư, khai thác các thiết chế văn hóa, thông tin, thể thao phát huy hiệu quả, như rạp chiếp phim, bảo tàng, nhà thi đấu, khu liên hợp thể thao... đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Đến nay, 19 loại hình sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số Lào Cai đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. 26 di tích lịch sử văn hóa được công nhận (trong đó có 11 di tích cấp tỉnh, 15 di tích cấp quốc gia).
Các chính sách an sinh xã hội được quan tâm chu đáo, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Lào Cai giảm nhanh, năm 2016 chỉ còn 12% (theo tiêu chí cũ). Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, năm 2016 gấp 2,2 lần năm 2010, bằng 90% bình quân cả nước.
Quốc phòng, an ninh, quan hệ đối ngoại không ngừng được củng cố, phát triển. Chú trọng kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp thế trận an ninh nhân dân; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện ngày càng vững chắc và có nhiều hoạt động dẫn đầu trên địa bàn Quân khu 2. Năm 2007, Lào Cai là tỉnh đầu tiên trên cả nước hoàn thành việc phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc (hoàn thành sớm trước 1 năm so với kế hoạch Trung ương giao). Quan hệ đối ngoại được mở rộng, hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân được kết hợp hài hòa, tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội. Phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” các quan hệ, hợp tác quốc tế trở thành định hướng đối ngoại lớn của tỉnh, trọng tâm là quan hệ hợp tác hữu nghị với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); là tỉnh dẫn đầu trong hợp tác của các tỉnh Việt Nam với các tỉnh của Trung Quốc. Là đối tác tin cậy của các nhà đầu tư và tài trợ quốc tế; tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại với các vùng và đại sứ quán các nước và các tổ chức quốc tế. Làm tốt vai trò cầu nối giữa Việt Nam với Trung Quốc trên hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng.
Cùng với những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị có nhiều đổi mới, chủ động, sáng tạo và đột phá. Hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn có nhiều kết quả quan trọng. Đảng bộ tỉnh đã tham gia tổng kết 30 năm đổi mới về vấn đề xã hội; tổng kết 25 năm tái lập, xây dựng và phát triển tỉnh Lào Cai; nghiên cứu nhiều đề tài khoa học cấp tỉnh có giá trị. Vận dụng sáng tạo, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng phù hợp với điều kiện thực tiễn của Lào Cai bằng các chương trình công tác trọng tâm, các đề án, nghị quyết chuyên đề về các lĩnh vực phù hợp với từng giai đoạn trong suốt 15 năm gần đây (Nhiệm kỳ Đại hội XII, XIII: 7 chương trình công tác trọng tâm với 29 đề án, kế hoạch và nghị quyết chuyên đề; Nhiệm kỳ Đại hội XIV: 7 chương trình, 27 đề án trọng tâm; Nhiệm kỳ Đại hội XV: 4 chương trình, 19 đề án trọng tâm). Công tác tư tưởng luôn bám sát chủ trương đổi mới và được tiến hành đồng bộ, toàn diện về nội dung và phương pháp tuyên truyền, vận động (tiêu biểu là xây dựng và thực hiện mô hình tuyên vận cấp xã, thôn bản, tổ dân phố) đã tạo được sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Quan tâm lãnh đạo công tác xây dựng tổ chức Đảng và phát triển đảng viên. Thời điểm tái lập (năm 1991) toàn Đảng bộ có 493 tổ chức cơ sở Đảng với 10.942 đảng viên; và 451 thôn trắng về đảng viên; đến hết tháng 6 năm 2017 Đảng bộ tỉnh có 686 chi, đảng bộ cơ sở và 3.237 chi bộ dưới cơ sở với 43.019 đảng viên, 100% thôn, tổ dân phố có chi bộ độc lập. Tổ chức bộ máy chính quyền và các cơ quan nhà nước được củng cố, kiện toàn hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đổi mới, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp, hăng hái thi đua lao động, học tập, đóng góp quan trọng đưa Lào Cai vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phát huy các tiềm năng, lợi thế để phát triển.
Có được những thành tựu trên, trước hết là do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh cùng các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở có sự đoàn kết, thống nhất cao, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vì một Lào Cai phát triển nhanh, bền vững; có quan điểm chỉ đạo đúng đắn, phương pháp lãnh đạo khoa học, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương; coi trọng phát triển toàn diện, bền vững, có bước đi thích hợp; thực hiện phương châm "nói đi đôi với làm"; luôn chú trọng ưu tiên cho cơ sở. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và Quy chế dân chủ ở cơ sở; sức mạnh đoàn kết các dân tộc được phát huy. Lào Cai biết khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nội lực và tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương; có chính sách thu hút đầu tư, biết khơi dậy và luôn trân trọng, cầu thị sự đóng góp về vật chất, trí tuệ và tinh thần của các thành phần kinh tế, của bạn bè trong nước và quốc tế.
Với những thành tựu đạt được, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận và phong tặng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Sao vàng; Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều tập thể và cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động và dịp kỷ niệm 110 năm thành lập tỉnh lần này được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất lần thứ 2.
Quang cảnh Lễ kỷ niệm. |
Kính thưa các quý vị đại biểu, đồng chí, đồng bào!
Sau 110 năm, Lào Cai đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một tỉnh nghèo, lạc hậu, Lào Cai đã bứt phá, vươn lên, tạo ra sự đổi thay toàn diện, sâu sắc trên mọi lĩnh vực. Mặc dù đã có bước phát triển vượt bậc, song do xuất phát điểm thấp, cùng với những khó khăn vốn có của một tỉnh vùng cao, biên giới, nhiều dân tộc, Lào Cai vẫn còn là tỉnh nghèo, quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành còn yếu. Quản lý nhà nước một số lĩnh vực như đất đai, khoáng sản, rừng, nguồn nước còn nhiều bất cập; ô nhiễm môi trường trong hoạt động kinh tế, xã hội, phát triển đô thị chưa được xử lý triệt để...
Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh phải tập trung, phấn đấu đến năm 2020 đưa Lào Cai trở thành tỉnh phát triển của khu vực Tây Bắc, tiến tới trở thành tỉnh khá trong cả nước theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XV và chỉ đạo của Trung ương.
Để đạt được mục tiêu trên, từ nay đến năm 2020 và các năm tiếp theo, toàn tỉnh tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động trong từng ngành, lĩnh vực, theo hướng tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ, tập trung cho phát triển kinh tế cửa khẩu, du lịch, chú trọng phát triển công nghiệp khai thác, chế biến sâu các loại khóang sản chiến lược cho cả nước. Ưu tiên đầu tư cho nông, lâm nghiệp, xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Hai là, thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; nâng cao chất lượng quy hoạch vùng, đô thị. Phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, phát triển đô thị chất lượng cao và các trung tâm du lịch. Tích cực thực hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước; chủ động đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân phát triển, đặc biệt là kêu gọi, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược.
Ba là, phát huy tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ đáp ứng yêu cầu phát triển.
Bốn là, đổi mới căn bản, toàn diện, tạo bước đột phá về giáo dục, đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ. Phát triển, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Nâng cao chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân và chất lượng dân số. Bảo đảm an sinh xã hội; sớm trở thành tỉnh dẫn đầu khu vực, tương xứng tốp đầu cả nước về y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, giải quyết an sinh xã hội.
Năm là, chủ động củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; mở rộng đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo môi trường ổn định để phát triển bền vững gắn với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Sáu là, phát huy truyền thống đoàn kết, năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Nâng cao năng lực, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, đặc biệt là cấp cơ sở xã, phường, chi bộ thôn, bản. Đào tạo cán bộ gắn với sử dụng, luân chuyển; quan tâm đào tạo bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, dân vận của Đảng theo hướng gần dân, sát cơ sở. Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân; đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện hiệu quả cải cách hành chính đồng bộ trong hệ thống chính trị; xây dựng chính quyền các cấp trong sạch vững mạnh; Đề cao kỷ luật, kỷ cương, quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thực thi công vụ. Lấy việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng làm cơ sở cho sự rèn luyện, phấn đấu về mọi mặt của cán bộ, đảng viên.
Trong buổi lễ trọng thể này, thay mặt Đảng, chính quyền, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ban ngành Trung ương, tới bạn bè trong nước và quốc tế đã quan tâm giúp đỡ tỉnh Lào Cai trong suốt thế kỷ qua. Xin biểu dương lớp lớp cán bộ, chiến sĩ, đồng chí, đồng bào đã hy sinh cống hiến, bảo vệ xây dựng quê hương Lào Cai qua từng chặng đường lịch sử để chúng ta có một Lào Cai như hôm nay. Nhân dịp này tôi thiết tha kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, quân và dân các dân tộc Lào Cai hãy phát huy truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, tiếp tục đồng sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu vươn lên. Đồng thời Lào Cai cũng mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, của bầu bạn trong nước và đối tác quốc tế, của cộng đồng doanh nghiệp để Lào Cai trở thành điểm sáng trong tiến trình hội nhập của đất nước và quốc tế.
Kính thưa các quý vị đại biểu, đồng chí, đồng bào!
Triển vọng và thách thức đang ở phía trước chúng ta. Phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang 110 năm, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc Lào Cai quyết tâm đoàn kết viết tiếp trang sử mới thật hào hùng để xây dựng quê hương Lào Cai giàu mạnh; Nhân dân các dân tộc Lào Cai ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
Xin trân trọng cảm ơn!
(*) Đầu đề do Ban biên tập đặt