Việt Nam thăng hạng trong 3 cuộc đua toàn cầu
Nhận định được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra trong báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết 19 về những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Ba bộ chỉ số mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhắc tới là chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới), chỉ số môi trường kinh doanh (theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới) và chỉ số về đổi mới sáng tạo (theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới).
Môi trường kinh doanh của Việt Nam đã được cải thiện mạnh mẽ trong năm qua. |
Cụ thể, năm 2017, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam tăng 5 bậc so với năm 2016 (từ vị trí 60/138 lên vị trí 55/137 nền kinh tế). Kết quả này đạt được bởi 5/12 chỉ số trụ cột tăng điểm, 6/12 chỉ số trụ cột tăng bậc (với 32/114 chỉ số thành phần vừa tăng điểm và tăng bậc, 24/114 chỉ số thành phần tăng hạng nhưng điểm số không đổi hoặc tăng điểm nhưng thứ hạng không đổi). Đa số trụ cột về hiệu quả thị trường (như thị trường tài chính, lao động, công nghệ và quy mô thị trường) đã có sự cải thiện.
Môi trường kinh doanh đạt thứ hạng 68/190, tăng 14 bậc so với năm ngoái. Đây là mức tăng bậc nhiều nhất trong thập niên qua. Nếu tính hai năm liêp tiếp thì môi trường kinh doanh của nước ta tăng 23 bậc. Kết quả tích cực này đạt được bởi 8/10 chỉ số tăng điểm (không có chỉ số nào giảm điểm), 6/10 chỉ số tăng bậc. Trong đó, Nộp thuế (tăng 61 bậc) và Tiếp cận điện năng (tăng 32 bậc) là 2 chỉ số đóng góp đáng kể nhất vào cải thiện môi trường kinh doanh.
Bộ chỉ số thứ ba là đổi mới sáng tạo cải thiện 12 bậc, đạt thứ hạng 47/127. Đây cũng là thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đã đạt được từ trước cho đến nay. Trong nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp, Việt Nam đã vươn lên xếp thứ nhất (từ vị trí số 3 năm 2016). Trong ASEAN, Việt Nam vươn lên và đứng trên Thái Lan (vị trí 51). Sự cải thiện này chủ yếu đạt được nhờ việc cập nhật kịp thời dữ liệu cho Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới.
Ngoài ra, trong năm 2017, 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập gồm Moody’s, Standards and Poor’s và Fitch đã tiến hành đánh giá mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt Nam năm 2016. Đến nay, 2 trong 3 tổ chức (gồm Moody’s và Fitch) đã công bố nâng xếp hạng về triển vọng của Việt Nam từ mức ổn định lên mức tích cực.
Riêng về bộ chỉ số Chính phủ điện tử mà Nghị quyết 19 đề cập, năm nay Liên Hiệp quốc chưa công bố vì bộ chỉ số này công bố 2 năm/lần. Do vậy, chưa có kết quả cụ thể về cải cách chỉ số này.
Tuy nhiên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng chỉ rõ, thứ hạng môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh của Việt Nam cải thiện tích cực nhưng vẫn thiếu tính bền vững bởi còn có chỉ số trong nhiều năm chưa có cải cách nào hoặc có cải cách nhưng chậm và cách xa so với các nước trong khu vực.
Ví dụ, hiệu quả thị trường hàng hoá nhiều năm chưa có sự cải thiện, suy giảm ở hầu hết các chỉ số thành phần. Đáng chú ý là mức độ cạnh tranh (hiệu lực của chính sách chống độc quyền kém, môi trường kinh doanh không thuận lợi) và chất lượng các điều kiện cầu giảm.
Chất lượng cơ sở hạ tầng, giáo dục ít được cải thiện; trình độ phát triển kinh doanh và đổi mới công nghệ tuy có sự cải thiện, nhưng tốc độ chậm.
Một số chỉ số về Môi trường kinh doanh vẫn nằm cuối bảng xếp hạng (như Khởi sự kinh doanh - thứ 123; Giải quyết phá sản doanh nghiệp – thứ 129). Đáng chú ý là chỉ số Đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản, nhiều năm nay không có cải cách và sự cải thiện nào.
Trụ cột về thể chế (ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh) tuy có sự cải thiện, nhưng còn chậm và vẫn còn nhiều rào cản đối với doanh nghiệp.
Trong khu vực ASEAN, Việt Nam đứng thứ 6 về xếp hạng năng lực cạnh tranh, và thứ 5 về xếp hạng môi trường kinh doanh. Những năm gần đây, Indonesia, Brunei và Thái Lan liên tục có mức cải thiện nhanh và mạnh mẽ hơn chúng ta. Vì thế mục tiêu đạt mức trung bình của các nước ASEAN 4 trên các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh trở nên thách thức hơn và đòi hỏi phải nỗ lực nhiều hơn.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng điểm một số kết quả thể hiện những nỗ lực cải cách của các Bộ, ngành, như Chỉ số Nộp thuế và BHXH tăng điểm và tăng hạng nhiều nhất (tương ứng tăng 14,78 điểm và 81 bậc), đạt vị trí 86/190 (năm ngoái ở vị trí 167) nhờ nỗ lực mạnh mẽ của ngành tài chính trong cải cách chính sách, thủ tục hành chính thuế và của ngành bảo hiểm trong áp dụng giao dịch điện tử.
Tiếp cận điện năng liên tục tăng điểm và tăng hạng trong 4 năm qua, trong đó năm 2017 tăng hạng nhiều nhất (32 bậc). Nếu tính cả 4 năm từ khi EVN triển khai các giải pháp về đơn giản hoá thủ tục, rút ngắn thời gian và nâng cao chất lượng cung cấp điện theo yêu cầu của Nghị quyết 19 thì Tiếp cận điện năng tăng 92 bậc, từ vị trí cuối bảng xếp hạng lên vị trí trung bình trên.
Tiếp cận tín dụng cải thiện tốt (thứ 29/190) nhờ quy định mở rộng phạm vi tài sản giao dịch bảo đảm; và do Ngân hàng Nhà nước triển khai tích cực các giải pháp cải thiện và minh bạch hóa thông tin tín dụng.
Cấp phép xây dựng có nhiều thay đổi tích cực, thứ hạng tăng 4 bậc (đạt vị trí 20/190). Kết quả này ghi nhận những nỗ lực của ngành xây dựng trong việc sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi các văn bản pháp luật; tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan (công an, cấp thoát nước,…) để minh bạch hóa, đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục nhằm rút ngắn thời gian Cấp phép xây dựng cho người dân, doanh nghiệp.
Giao dịch thương mại qua biên giới tuy không cải thiện về thứ hạng, nhưng điểm số tuyệt đối tăng nhờ cải thiện về thủ tục hải quan và trong một số lĩnh vực về quản lý chuyên ngành (như kiểm dịch thực vật,…).